- 001. Lời Nói Đầu
- 002. Lời Tựa Tái Bản (Quyển Thiền Sư Việt Nam)
- 003. Khương Tăng Hội (K’ang-Sen-Houci)
- 004. Thích Đạo Thiền
- 005. Thích Huệ Thắng
- 006. Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci) (? - 594) (Tổ khai sáng dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Việt Nam)
- 007. Thiền sư Pháp Hiền (? - 626) (Đời thứ 1, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 008. Thiền sư Thanh Biện (? - 686) (Đời thứ 4, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 009. Thiền sư Định Không (730 - 808) (Đời thứ 8, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 010. Thiền sư Vô Ngôn Thông (? - 826) (Tổ khai sáng dòng Thiền Vô Ngôn Thông ở Việt Nam)
- 011. Thiền sư Cảm Thành (? - 860) (Đời thứ 1, dòng Vô Ngôn Thông)
- 012. Thiền sư Thiện Hội (? - 900) (Đời thứ 2, dòng Vô Ngôn Thông)
- 013. Trưởng lão La Quí (852 - 936) (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 014. Thiền sư Pháp Thuận (914 - 990) (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 015. Thiền sư Vân Phong (? - 956) (Đời thứ 3, dòng Vô Ngôn Thông)
- 016. Đại sư Khuông Việt (933 - 1011) (Đời thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông)
- 017. Thiền sư Ma-ha (Ma-ha Ma-da) (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 018. Thiền Ông Đạo Giả (902 - 979) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 019. Thiền sư Sùng Phạm (1004 - 1087) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 020. Thiền sư Định Huệ (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 021. Thiền sư Vạn Hạnh (? - 1018) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 022. Thiền sư Đa Bảo (Đời thứ 5, dòng Vô Ngôn Thông)
- 023. Trưởng lão Định Hương (? - 1051 ) (Đời thứ 6, dòng Vô Ngôn Thông)
- 024. Thiền sư Thiền Lão (Đời thứ 6, dòng Vô Ngôn Thông)
- 025. Thiền sư Thảo Đường (Tổ khai sáng dòng thiền Thảo Đường ở Việt Nam)
- 026. Thiền sư Viên Chiếu (999 - 1090) (Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)
- 027. Phụ bản Tham Đồ Hiển Quyết
- 028. Thiền sư Cứu Chỉ (Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)
- 029. Thiền sư Đạo Hạnh (? - 1115 ) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 030. Thiền sư Bảo Tánh và Thiền sư Minh Tâm (? - 1034) (Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)
- 031. Thiền sư Quảng Trí (Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)
- 032. Thiền sư Thuần Chân (? - 1101) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 033. Thiền sư Trì Bát (1049 - 1117) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 034. Thiền sư Huệ Sinh (? - 1063) (Đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 035. Thiền sư Ngộ Ấn (1019 - 1088) (Đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông)
- 036. Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) (Đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông)
- 037. Quốc sư Thông Biện (? - 1134) (Đời thứ 8, dòng Vô Ngôn Thông)
- 038. Thiền sư Bổn Tịch (? - 1140) (Đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 039. Thiền sư Thiền Nham (1093 - 1163) (Đời thứ 13, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 040. Thiền sư Minh Không (1076 - 1141) (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 041. Thiền sư Khánh Hỷ (1066 - 1142) (Đời thứ 14, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 042. Thiền sư Giới Không (Đời thứ 15, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 043. Thiền sư Pháp Dung (? - 1174) (Đời thứ 15, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 044. Thiền sư Không Lộ (? - 1119) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)
- 045. Thiền sư Đạo Huệ (? - 1172) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)
- 046. Thiền sư Bảo Giám (? - 1173) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)
- 047. Thiền sư Bổn Tịnh (1100 - 1176) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)
- 048. Thiền sư Trí (Đời thứ 16, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 049. Thiền sư Chân Không (1045 - 1100) (Đời thứ 16, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 050. Thiền sư Đạo Lâm (? - 1203) (Đời thứ 16, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 051. Ni sư Diệu Nhân (1041 - 1113) (Đời thứ 17, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 052. Thiền sư Viên Học (1073 - 1136) (Đời thứ 17, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 053. Thiền sư Tịnh Thiền (1121 - 1193) (Đời thứ 17, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 054. Quốc sư Viên Thông (1080 - 1151) (Đời thứ 18, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 055. Thiền sư Giác Hải (Khoảng thế kỷ 11-12) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
- 056. Thiền sư Tịnh Không (? - 1170) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
- 057. Thiền sư Đại Xả (1120 - 1180) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
- 058. Thiền sư Tín Học (? - 1190) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
- 059. Thiền sư Trường Nguyên (1110 - 1165) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
- 060. Thiền sư Tịnh Lực (1112 - 1175) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
- 061. Thiền sư Trí Bảo (? - 1190) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
- 062. Thiền sư Nguyện Học (? - 1174) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
- 063. Thiền sư Minh Trí (? - 1196) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
- 064. Thiền sư Tịnh Giới (? - 1207) (Đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
- 065. Thiền sư Quảng Nghiêm (1121 - 1190) (Đời thứ 11, dòng Vô Ngôn Thông)
- 066. Thiền sư Thường Chiếu (? - 1203) (Đời thứ 12, dòng Vô Ngôn Thông)
- 067. Thiền sư Y Sơn (? - 1213) (Đời thứ 19, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
- 068. Thiền sư Thần Nghi (? - 1216) (Đời thứ 13, dòng Vô Ngôn Thông)
- 069. Đại sĩ Thông Thiền (? - 1228) (Đời thứ 13, dòng Vô Ngôn Thông)
- 070. Thiền sư Hiện Quang (? - 1221) (Đời thứ 14, dòng Vô Ngôn Thông)
- 071. Thiền sư Tức Lự (Đời thứ 14, dòng Vô Ngôn Thông)
- 072. Cư sĩ Ứng Thuận Vương (Đời thứ 15, dòng Vô Ngôn Thông)
- 073. TRẦN THÁI TÔNG Ông Vua Thiền Sư (1218 - 1277)
- 074. Phụ bản Trần Thái Tông
- 075. TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ TRẦN TUNG (1230 - 1291)
- 076. Phụ bản Tuệ Trung Thượng Sĩ
- 077. Sơ Tổ Phái Trúc Lâm TRẦN NHÂN TÔNG (1258 - 1308)
- 078. Thiền sư Pháp Loa (1284 - 1330) (Tổ thứ hai phái Trúc Lâm)
- 079. Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334) (Tổ thứ ba phái Trúc Lâm)
- 080. Quốc sư Quán Viên (Cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14)
- 081. Thiền sư Đức Minh
- 082. Ni sư Tuệ Thông (Giữa thế kỷ 14)
- 083. Thiền sư Hương Hải (1628 - 1715) (Phái Trúc Lâm)
- 084. Thiền sư Đạo Chân và Thiền sư Đạo Tâm (Thế kỷ 17)
- 085. Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo (Đời pháp thứ 35, tông Tào Động)
- 086. Thiền sư Thủy Nguyệt hiệu Thông Giác (1637 - 1704) (Đời pháp thứ 36, tông Tào Động)
- 087. Thiền sư Tông Diễn hiệu Chân Dung (1640 - 1711) (Đời pháp thứ 37, tông Tào Động)
- 088. Thiền sư Thanh Nguyên (Đời thứ 41, tông Tào Động)
- 089. Thiền sư Thanh Đàm hiệu Minh Chánh (Đời pháp thứ 42, tông Tào Động)
- 090. Thiền sư Như Như (Tổ Quạ) (Đời thứ 45, Tông Tào Động)
- 091. Thiền sư An Thiền
- 092. Hòa thượng Chuyết Công (1590 - 1644) (Đời pháp thứ 34, tông Lâm Tế)
- 093. Thiền sư Minh Hành (1596 - 1659) (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
- 094. Thiền sư Minh Lương (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
- 095. Thiền sư Chân Nguyên pháp danh Tuệ Đăng (1647 - 1726) (Đời pháp thứ 36, tông Lâm Tế)
- 096. Thiền sư Như Hiện hiệu Nguyệt Quang (? - 1765) (Đời pháp thứ 37, tông Lâm Tế)
- 097. Thiền sư Như Trừng Lân Giác (1696 - 1733) (Đời pháp thứ 37, tông Lâm Tế)
- 098. Thiền sư Tính Tĩnh (1692 - 1773) (Đời pháp thứ 38, tông Lâm Tế)
- 099. Thiền sư Tính Tuyền (1674 - 1744) (Đời pháp thứ 39, tông Lâm Tế)
- 100. Thiền sư Hải Quýnh hiệu Từ Phong (1728 - 1811) (Đời pháp thứ 40, tông Lâm Tế)
- 101. Đại sư Kim Liên Tịch Truyền (1745 - 1816) (Đời pháp thứ 41, tông Lâm Tế)
- 102. Đại sư Tường Quang Chiếu Khoan (1741 - 1830) (Đời pháp thứ 42, tông Lâm Tế)
- 103. Thiền sư Phúc Điền (Thế kỷ 19)
- 104. Đại sư Phổ Tịnh (Đời pháp thứ 43, tông Lâm Tế)
- 105. Đại sư Thông Vinh (Đời pháp thứ 44, tông Lâm Tế)
- 106. TÔNG LÂM TẾ TRUYỀN VÀO MIỀN TRUNG VIỆT NAM (ĐÀNG TRONG)
- 107. TÔNG TÀO ĐỘNG TRUYỀN VÀO MIỀN TRUNG VIỆT NAM (ĐÀNG TRONG)
- 108. Thiền sư Tử Dung Minh Hoằng (Đời pháp thứ 34, dòng Lâm Tế)
- 109. Thiền sư Liễu Quán (? - 1743) (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
- 110. Thiền sư Tánh Thông Giác Ngộ (Hòa thượng Sơn Nhân)
- 111. Thiền sư Pháp Thông Thiện Hỷ với chùa Long Ẩn
- 112. Thiền sư Tịnh Giác Thiện Trì (Mộc Y Sơn Ông)
- 113. Hòa thượng Minh Vật Nhất Tri (? - 1786) (Đời pháp thứ 34, tông Lâm Tế)
- 114. Hòa thượng Thành Đẳng Minh Lượng (Minh Yêu) và Pháp Tử
- 115. Hòa thượng Thành Nhạc Ẩn Sơn (? - 1776) (Đời pháp thứ 34, tông Lâm Tế)
- 116. Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (1725 - 1821) với chùa Sắc Tứ Từ Ân và chùa Quốc Ân Khải Tường
- 117. Đồ biểu truyền thừa của Hòa thượng Ẩn Sơn
- 118. Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành (? - 1823) (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
- 119. Thiền sư Tổ Ấn Mật Hoằng (1735 - 1835) (Đời pháp thứ 36, tông Lâm Tế)
- 120. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang (1758 - 1827) (Đời pháp thứ 36, tông Lâm Tế)
- 121. Thiền sư Nhất Định (1784 - 1847)
- 122. Tăng cang Tiên Giác Hải Tịnh (1788 - 1875) (Đời pháp thứ 37, tông Lâm Tế)
- 123. Thiền sư Minh Vi Mật Hạnh (1828 - 1898) (Đời pháp thứ 38, tông Lâm Tế)
- 124. Thiền sư Minh Khiêm Hoằng Ân hiệu Diệu Nghĩa (1850 - 1914) (Đời thứ 38, tông Lâm Tế)
- 125. Thiền sư Đạo Trung Thiện Hiếu (Tổ Đỉa) (Đời thứ 38, tông Lâm Tế)
- 126. Sơ Đồ Truyền Thừa Của Thiền Sư Thiện Hiếu
- 127. Thiền sư Như Nhãn Từ Phong (1864 - 1938) (Đời thứ 39, tông Lâm Tế)
- 128. Thiền sư Hải Bình Bảo Tạng (1818 - 1862) (Đời thứ 40, tông Lâm Tế)
- 129. Thiền sư Ngộ Chân (Hòa thượng Long Cốc)
- 130. Hòa thượng Hoàng Long (? - 1737) (hoằng hóa ở trấn Hà Tiên)
- 131. Thiền sư Hồng Ân và Trí Năng hạ mãnh hổ
- 132. Thiền sư Khánh Long
- 133. Ni cô họ Lê với Núi Thị Vãi
- 134. Ni cô họ Tống ở Hà Tiên
- 135. PHẦN PHỤ NHỮNG DÒNG KỆ CÁC PHÁI
- 136. Sách Tham Khảo

Thiền Sư Việt Nam
HT. Thích Thanh Từ
Nguồn: thientruclam.info
____________________
109. Thiền sư Liễu Quán (? - 1743) (Đời pháp thứ 35, tông Lâm Tế)
Sư tên Lê Thiệt Diệu, quê làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (Sông Cầu bây giờ). Lúc sáu tuổi, Sư mồ côi mẹ, cha đem đến chùa Hội Tôn thọ giáo với Hòa thượng Tế Viên (người Trung Hoa). Được bảy năm thì Hòa thượng tịch, Sư ra Thuận Hóa xin học với Giác Phong lão tổ (người Trung Hoa) ở chùa Báo Quốc. Ở đây được một năm, nhằm năm Tân Mùi (1691), Sư phải trở về phụng dưỡng cha già, lấy nghề kiếm củi độ nhật. Qua bốn năm thân phụ mất, nhằm năm Ất Hợi (1695), Sư lại trở ra Thuận Hóa thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thạch Liêm. Năm Đinh Sửu (1697), Sư lại thọ giới Cụ túc với Lão hòa thượng Từ Lâm (người Trung Hoa) ở chùa Từ Lâm.
Năm Kỷ Mão (1699), Sư đi tham lễ khắp Thiền lâm trải qua biết bao sự khó khăn khổ nhọc. Đến năm Nhâm Ngọ (1702), Sư lại Long Sơn tham yết Hòa thượng Tử Dung cầu dạy pháp tham thiền. Hòa thượng dạy Sư tham câu:
Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ?
(Muôn pháp về một, một về chỗ nào?)
Sư ngày đêm tham cứu đến bảy, tám năm mà chưa lãnh hội, trong lòng tự lấy làm hổ thẹn.
Một hôm, nhân đọc Truyền Đăng Lục đến câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, thoạt nhiên Sư được tỏ ngộ. Nhưng vì núi sông cách trở, Sư không thể đến ngài Tử Dung để trình sở ngộ được.
Đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), Sư trở ra Long Sơn cầu Hòa thượng ấn chứng. Sư đem chỗ công phu của mình mỗi mỗi trình bày, đoạn nói đến câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, Hòa thượng liền bảo:
- Bờ thẳm buông tay, tự nhận đảm đang,
Chết rồi sống lại, dối người chẳng được.
(Huyền nhai tán thủ, tự khẳng thừa đương,
Tuyệt hậu tái tô, khi quân bất đắc.)
Sư liền vỗ tay cười ha hả!
Hòa thượng bảo:
- Chưa nhằm.
Sư nói:
- Trái cân vốn là sắt (bình thùy nguyên thị thiết).
Hòa thượng bảo:
- Chưa nhằm.
*
* *
Hôm sau Hòa thượng gọi Sư đến bảo:
- Chuyện hôm qua chưa xong, nói lại xem!
Sư thưa:
- Sớm biết đèn là lửa,
Cơm chín đã lâu rồi.
(Tảo tri đăng thị hỏa,
Thực thục dĩ đa thì.)
Bấy giờ, Hòa thượng mới chấp nhận và khen ngợi.
*
* *
Mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712), Hòa thượng vào Quảng Nam dự lễ Toàn Viện (?), Sư đem trình bài kệ Dục Phật (tắm Phật).
Hòa thượng hỏi:
- Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật trao nhau, chẳng biết truyền trao cái gì?
Sư thưa:
- Búp măng trên đá dài một trượng,
Phất tử lông rùa nặng ba cân.
(Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng,
Qui mao phủ phất trọng tam cân.)
Hòa thượng nói:
- Thuyền chèo trên núi cao,
Ngựa đua dưới đáy bể.
(Cao cao sơn thượng hành thuyền
Thâm thâm hải để tẩu mã.)
Sư đáp:
- Cây đàn không dây trọn ngày gẩy
Trâu đất gẫy sừng rống suốt đêm.
(Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống
Một huyền cầm tử tận nhật đàn.)
Sư biện tài lanh lẹ, lâm cơ ứng biến, như nước với sữa rất phù hợp. Hòa thượng rất vui mừng ấn khả.
Chỗ hóa duyên của Sư rất rộng, thường ra vào Huế, Phú Yên để giáo hóa luôn, không nề khó nhọc.
Năm Quí Sửu (1733), Giáp Dần (1734) và Ất Mão (1735), Sư nhận lời thỉnh của chư Tăng trong Tông môn, cùng các Tể quan, cư sĩ ở Huế, dự bốn lễ đại giới đàn. Qua năm Canh Thân (1740), Sư tấn đàn Long Hoa phóng giới, rồi trở về chùa Thiền Tông.
Thời ấy, chúa Nguyễn Ninh Vương rất quí mến đạo đức của Sư, thường mời vào cung đàm đạo, nhưng Sư vẫn từ chối không vào.
Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742), Sư lại dự lễ giới đàn ở chùa Viên Thông. Cuối mùa thu năm ấy, Sư có chút bệnh, gọi môn đồ đến dạy rằng:
- Nhân duyên ta đã hết, ta sắp đi đây.
Môn đồ kêu khóc ầm lên. Sư lại bảo:
- Các ngươi kêu khóc mà làm gì? Chư Phật ra đời còn nhập Niết-bàn; nay ta đi lại rõ ràng, về ắt có chỗ, các ngươi không nên khóc lóc và đừng buồn thảm lắm.
Cuối tháng hai năm Quí Hợi (1743), trước mấy ngày tịch, Sư ngồi dậy vững vàng, tự cầm bút viết bài kệ từ biệt rằng:
Hơn bảy mươi năm ở cõi này,
Không không sắc sắc thảy dung thông
Hôm nay nguyện mãn về quê cũ
Nào phải bôn ba hỏi Tổ tông.
(Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn man vấn tổ tông.)
Đến ngày 22 tháng 2, buổi sáng, sau khi dùng trà cùng các đồ đệ hầu chuyện và làm lễ xong, Sư hỏi giờ gì, các môn đồ thưa: “Giờ Mùi”, Sư liền vui vẻ thị tịch.
Vua nghe tin, sắc ban bia ký và tứ hiệu là Đạo Hạnh thụy Chánh Giác Viên Ngộ hòa thượng.
Sư là Tổ khai sơn chùa Thiên Thai Thiền Tông ở Huế. Sư có bài kệ pháp phái rằng:
Thật tế đại đạo
Tánh hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận
Đức bổn từ phong.
Giới định phước tuệ
Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả
Mật khế thành công.
Truyền trì diệu lý
Diễn sướng chánh tông
Hạnh giải tương ưng
Đạt ngộ chân không.
Tăng đồ và tín đồ miền Trung và miền Nam hiện nay hầu hết là thuộc dòng Lâm Tế, mà người có công khai hóa hơn hết chính là Sư. Vì thế mà thành một nhánh lớn gọi là Liễu Quán. Sư là Sư tổ trong phái này.
____________________