Kinh Pháp Cú (TTS), Phẩm 05, Phẩm Ngu - The Dhammapada, Chapter 05, The Fool
Translated By: Acharya Buddharakkhita - Dịch từ tiếng Hán: Thích Thiện Siêu
Illustrations by - Tranh Vẽ: Mr. P. Wickramanayaka
Phẩm 05 – Kệ 60-75 – Phẩm Ngu
Chapter 05 – Verses 60-75 - Balavagga: The Fool
60. Long is the night to the sleepless; long is the league to the weary. Long is worldly existence to fools who know not the Sublime Truth.
60. Đêm rất dài với người mất ngủ, đường rất xa với kẻ lữ hành mỏi mệt. Cũng thế, dòng luân hồi(47) sẽ tiếp nối mãi với kẻ ngu si không minh đạt Chánh pháp.
(47) Luân hồi (samsara) chỉ sự sanh tử luân chuyển mãi không ngừng.
61. Should a seeker not find a companion who is better or equal, let him resolutely pursue a solitary course; there is no fellowship with the fool.
61. Không gặp kẻ hơn mình cũng không gặp kẻ ngang mình để kết bạn, thà quyết chí ở một mình còn hơn kết bạn với người ngu.
62. The fool worries, thinking, "I have sons, I have wealth." Indeed, when he himself is not his own, whence are sons, whence is wealth?
62. “Đây là con ta, đây là tài sản của ta”, kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế, nhưng chẳng biết chính “ta” còn không có, huống là con ta hay là tài sản ta.
63. A fool who knows his foolishness is wise at least to that extent, but a fool who thinks himself wise is a fool indeed.
63. Ngu mà tự biết mình ngu tức là trí, ngu mà xưng rằng trí chính đó mới thật là ngu.
64. Though all his life a fool associates with a wise man, he no more comprehends the Truth than a spoon tastes the flavor of the soup.
64. Người ngu suốt đời gần gũi ngưòi trí, vẫn chẳng hiểu gì Chánh pháp, ví như cái muỗng múc thuốc chẳng bao giờ biết được mùi vị thuốc.
65. Though only for a moment a discerning person associates with a wise man, quickly he comprehends the Truth, just as the tongue tastes the flavor of the soup.
65. Người trí gần gũi với người trí trong khoảng khắc cũng hiểu được Chánh pháp, chẳng khác gì cái lưỡi mới tiếp xúc với thuốc đã biết được mùi vị của thuốc.
66. Fools of little wit are enemies unto themselves as they move about doing evil deeds, the fruits of which are bitter.
66. Kẻ phàm phu không giác tri nên đi chung với cừu địch một đường. Cũng thế, những người tạo ác nghiệp nhất định phải cùng ác nghiệp chịu khổ báo.
67. Ill done is that action of doing which one repents later, and the fruit of which one, weeping, reaps with tears.
67. Người gây điều bất thiện, làm xong ăn năn, khóc lóc nhỏ lệ dầm dề, vì biết mình sẽ thọ lấy quả báo tương lai(48).
(48) Thọ quả báo lành dữ trong tương lai tức là thân dị thục (vipaka) ở đây chỉ riêng ác quả.
68. Well done is that action of doing which one repents not later, and the fruit of which one, reaps with delight and happiness.
68. Người tạo các nghiệp thiện, làm xong chẳng ăn năn, còn vui mừng hớn hở, vì biết mình sẽ thọ lấy quả báo tương lai.(49)
(49) Đây chỉ thiện quả.
69. So long as an evil deed has not ripened, the fool thinks it as sweet as honey. But when the evil deed ripens, the fool comes to grief.
69. Khi ác nghiệp chưa thành thục, người ngu tưởng như đường mật ; nhưng khi ác nghiệp đã thành thục, họ nhất định phải chịu khổ đắng cay.
70. Month after month a fool may eat his food with the tip of a blade of grass, but he still is not worth a sixteenth part of the those who have comprehended the Truth.
70. Từ tháng này qua tháng khác, với món ăn bằng đầu ngọn cỏ cô sa (cỏ thơm) (50) người ngu có thể lấy ăn để sống, nhưng việc ấy không có giá trị bằng một phần mười sáu của người tư duy Chánh pháp(51).
(50) Cô sa (kusa) tên cỏ thơm, nguyên văn là Kusag-gena, tức là dùng đầu ngọn cỏ cô sa.
(51) Người tư duy Chánh pháp (Sankhata dhamman) là người thâm nhập Chánh pháp, đây là người giác ngộ Tứ đế.
71. Truly, an evil deed committed does not immediately bear fruit, like milk that does not turn sour all at once. But smoldering, it follows the fool like fire covered by ashes.
71. Người cất sữa bò không chỉ sáng chiều đã thành vị đề hồ(52) được. Cũng thế, kẻ phàm phu tạo nghiệp ác tuy chẳng cảm thụ ác quả liền, nhưng nghiệp lực vẫn âm thầm theo họ như lửa ngún giữa tro than.
(52) Muốn sữa đông đặc thành đề hồ không phải một ngày một đêm mà đông được kịp.
72. To his own ruin the fool gains knowledge, for it cleaves his head and destroys his innate goodness.
72. Kẻ phàm phu lòng muốn được tri thức mà hành động lại dẫn tới diệt vong, nên hạnh phúc bị tổn hại mà trí tuệ(53) cũng tiêu tan.
(53) Trong Hán văn chữ này cũng gọi là đầu thủ, đầu não.
73. The fool seeks undeserved reputation, precedence among monks, authority over monasteries, and honor among householders.
73. Kẻ ngu thường muốn hư danh : chỗ ngồi cao trong Tăng chúng, viện chủ trong Tăng viện, mọi người xin đến cúng dường.
74. "Let both laymen and monks think that it was done by me. In every work, great and small, let them follow me" — such is the ambition of the fool; thus his desire and pride increase.
74. Hãy để cho người Tăng kẻ tục nghĩ rằng : “Sự này do ta làm, mọi việc lớn nhỏ đều theo lệnh của ta”. Kẻ ngu cứ tưởng lầm như thế nên lòng tham lam ngạo mạn tăng hoài.
75. One is the quest for worldly gain, and quite another is the path to Nibbana. Clearly understanding this, let not the monk, the disciple of the Buddha, be carried away by worldly acclaim, but develop detachment instead.
75. Một đàng đưa tới thế gian, một đàng đưa tới Niết bàn, hàng Tỷ kheo đệ tử Phật hãy biết rõ như thế, chớ nên tham đắm thế lợi để chuyên chú vào đạo giải thoát.
Kinh Pháp Cú (TTS), Phẩm 01-26 - The Dhammapada, Chapter 01-26